Phong Cách Thơ Huy Cận: Những Khoảnh Khắc Sâu Lắng

Huy Cận – một nhà thơ có khả năng cảm nhận cuộc sống đặc biệt. Ông có khả năng nghe thấy những biểu hiện tinh vi nhất của tạo vật và những biến đổi vô cùng trong vũ trụ. Huy Cận có “cái nghiêng tai kỳ diệu” (Xuân Diệu). Ông cảm nhận được từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng, đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, và truyền đạt linh hồn của thiên nhiên thông qua những giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.

Trước năm 1945, mặc dù cảm nhận những nỗi đau nhưng thiên nhiên trong thơ của Huy Cận vẫn mang những tình cảm, tình đời (Ngậm ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):

  • Ðêm mưa làm nhớ không gian
    Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
    Tai nương nước giọt mái nhà
    Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
    • Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
      Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
      Sợi buồn con nhện giăng mau
      Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ của Huy Cận trở nên sâu sắc hơn, tình cảm hơn với cảnh sắc thiên nhiên:

Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá
Tiếng lao xao như ai ngả nón chào
Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao
Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm
(Chiều thu quê hương)

Khả năng đặc biệt này của Huy Cận không chỉ đến từ sự nhạy bén của các giác quan đã được rèn dũa từ thời thơ ấu ở quê hương, mà còn bắt nguồn từ chiều sâu của tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn luôn sẵn lòng nhận thức đầy đủ những âm vang của cuộc sống.

Có thể nói rằng: thiên nhiên và quê hương là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ của Huy Cận. Thiên nhiên trong thơ của Xuân Diệu thường được tận hưởng qua ánh hương và ngôn ngữ ái tình, trong khi đó, núi sông cây cỏ trong thơ Huy Cận luôn yên bình và bình thản như tâm hồn của tác giả. Không thể tưởng tượng được thơ Huy Cận sẽ như thế nào nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,… Nhưng thơ đó không thuộc loại thơ chỉ nói về đời sống nông thôn, bởi tác giả luôn cảm nhận sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, mở rộng biên giới của xúc cảm, và nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình” (Xuân Diệu).

Hồn thơ của Huy Cận luôn di chuyển giữa nhiều đối cực: vũ trụ-cuộc sống, sự sống-cái chết, nỗi buồn-niềm vui, hiện thực-lãng mạn.

Vũ trụ và cuộc sống luôn cùng tồn tại, và là hai đối cực hấp dẫn hồn thơ của Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với cuộc sống, nhưng sự cảm hứng về cuộc sống không tách rời sự cảm hứng về vũ trụ. Ông cống hiến để tìm hiểu những bí ẩn của không gian vô tận, song cũng nhìn về trái đất để hiểu rõ hơn về chính mình. Khát vọng ấy mang bản chất triết lý và nhân văn cao cả. Bởi vì đích đến cuối cùng không phải là các cõi siêu hình, mà chính là mặt đất, cõi sống của con người.

Huy Cận đã viết rất nhiều về cái chết, về sự tương phản giữa sự hữu hạn của cuộc sống con người và sự vô hạn của tạo hóa. Sự sống mãi mãi, vũ trụ vô cùng, nhưng con người không thể tránh khỏi cái chết. Khi nghĩ đến viễn cảnh rời xa cuộc sống, nhà thơ không khỏi xót xa và nuối tiếc. Nhưng đó không phải là biểu hiện của sự ham sống tầm thường, mà là khát vọng cống hiến hết mình, được tái sinh:

Rồi một ngày kia giã cõi đời
Xin cho gieo hạt hết trong tay
Chứ tay còn nắm chưa vơi hạt
Mà phải ra về cực lắm thay
(Hạt lại gieo)
Ðời thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Ðể ta hiểu giã từ chưa phải hết
Nằm đất quen như hạt chín sang mùa
(Say mùa hè)

Nỗi buồn và niềm vui trong thơ của Huy Cận đều được đẩy đến cực đoan: lúc buồn thì buồn đến ảo tưởng, thê thiết; khi vui thì vui tràn trề, dào dạt. Hành trình tâm tưởng của Huy Cận diễn ra từ nỗi buồn sâu đến niềm vui to lớn. Cảm nhận và thể hiện hai đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất quan tâm đến cuộc sống và có ý thức đầy đủ về thân phận con người. Khi nỗi buồn được ý thức, nó trở thành nỗi đau đời; khi niềm vui được ý thức, nó trở thành hạnh phúc và niềm tin.

Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước năm 1945, có sự phân cực rõ ràng giữa hiện thực và lãng mạn. Từ sau năm 1945, hai đối cực này dần đạt được sự hòa hợp cần thiết, dựa trên sự thống nhất của lý tưởng và hiện thực trong cuộc sống mới.

Huy Cận là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn với tầm cỡ thế giới. Mặc dù hiểu biết về nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ của ông vẫn chứa đựng sự đậm đà của dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã tràn vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – khi đã đạt đến độ thuần thục – dễ dàng đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống và thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh, trong tay Huy Cận, không chỉ đơn giản và chân thành, mà còn trầm lắng và hàm súc; sắc thái biểu hiện được thể hiện rõ rệt. Cách suy nghĩ bàng bạc hiện hình khắp các câu thơ. Hình ảnh trong thơ của Huy Cận thường không phức tạp và gây ấn tượng mạnh, mà lại thâm trầm và khơi gợi; nhẹ nhàng len sâu vào lòng người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường ít chi tiết, mộc mạc theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn là miêu tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian trong thơ Huy Cận được tạo nên – trước hết – nhờ sự phong vị của Thi nhân Đường.

FEATURED TOPIC