Vụ việc kết hôn trái pháp luật – Làm thế nào để hủy việc kết hôn trái pháp luật?

Có những trường hợp kết hôn trái pháp luật, khi mà một trong hai bên hoặc cả hai đều vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ví dụ về kết hôn trái pháp luật và các thủ tục để hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Ví dụ về kết hôn trái pháp luật

Cưỡng ép kết hôn

Khoản 4 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ.

Ví dụ về kết hôn trái pháp luật theo trường hợp cưỡng ép: Bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau. Trong trường hợp một bên chấp nhận kết hôn do chịu sức ép của bên kia (Ví dụ: một người đàn bà có được những bằng chứng về hành vi trái pháp luật hoặc về cuộc sống sa đoạ của người đàn ông và doạ rằng nếu người đàn ông không cưới mình, thì sẽ cho công bố các bằng chứng đó).

Ép buộc kết hôn

Trong Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có ví dụ về ép buộc kết hôn bằng cách đe dọa dùng vũ lực, dùng vật chất. Ta có một vụ ép buộc kết hôn, chứ không phải một vụ cưỡng ép kết hôn.

Lừa dối kết hôn

Luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối: Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Ví dụ về kết hôn trái pháp luật theo trường hợp lừa dối: A muốn kết hôn với B; C cố ý làm cho A nhầm tưởng rằng mình là B; cuối cùng, A kết hôn với C mà cứ ngỡ rằng đã kết hôn với B. Trong giả thiết vừa nêu, A có thể yêu cầu huỷ hôn nhân do có sự lừa dối. Cũng có thể xin thể huỷ hôn nhân do có sự lừa dối, nếu người đàn ông đề nghị cưới người đàn bà để làm vợ, cuối cùng lại cư xử với người đàn bà như một người giúp việc nhà.

Cản trở kết hôn

Theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.

Thủ tục yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật

Hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định về những chủ thể được quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Thẩm quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật

Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 và khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, thẩm quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật thuộc về Tòa án.

Chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật

Theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, những chủ thể sau đây có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật:

  • Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn
  • Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;
  • Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
  • Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
  • Hội liên hiệp phụ nữ.

Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật

Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy, hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết như trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng.

Ví dụ về Yêu cầu hủy kết hôn trái luật và công nhận quan hệ hôn nhân

Ngày 02.01.2015 anh A kết hôn với chị B. Ngày 08.6.2015 chị X nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy hôn nhân của A và B, vì chị X cho rằng A và B kết hôn trong thời gian anh A và chị đang ly thân chứ chưa ly hôn là trái pháp luật. Ngày 26.6.2015, anh A trúng xổ số được 3 tỉ, sau đó anh lấy tiền trúng số mua một xe ô tô, giấy chứng nhận quyền sở hữu xe ô tô ghi tên anh. Ngày 25.7.2015, TA giải quyết cho A và X ly hôn. Ngày 28.7.2015, anh A mua một căn nhà ở đường 3/2. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ghi tên anh A. Ngày 28.10.2015, TA giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật của A và B. Tại buổi giải quyết A và B yêu cầu TA công nhận quan hệ hôn nhân của họ.

Luật sư tư vấn:

Theo thông tin bạn cung cấp, anh A và chị X là vợ chồng hợp pháp và quan hệ hôn nhân chấm dứt vào thời điểm ngày 25/07/2015 khi Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn. Trước đó, vào ngày 02/01/2015, anh A có kết hôn với chị B, đây là hành vi vi phạm điều cấm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014:

“2. Cấm các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”

Như vậy, A và B không đủ điều kiện kết hôn theo quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

Do đó, việc A và B kết hôn trên thực tế không làm phát sinh quan hệ hôn nhân hợp pháp, cho đến thời điểm ngày 25/07/2015 thì anh A vẫn là chồng hợp pháp của chị X. Như vậy, việc xác định chủ sở hữu đối với chiếc xe ô tô và căn nhà được tiến hành theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Quy định này được quy định cụ thể tại điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân

  1. Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này.

  2. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.

  3. Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.”

Theo quy định trên, tiền trúng thưởng xổ số của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng và được coi là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp này, A trúng xổ số vào ngày 26/06/2015 và sau đó giải quyết ly hôn với chị X vào ngày 25/07/2015 nên số tiền trúng thưởng xổ số được xác định là phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa A và X. Do đó, số tiền trúng thưởng 03 tỷ đồng là tài sản chung của A và X, số tiền A dùng để mua xe có nguồn gốc là tài sản chung nên vẫn được xác định là tài sản chung dù xe đứng tên A.

Còn đối với căn nhà, A mua nhà sau khi A và X đã ly hôn nên quyền sở hữu căn nhà thuộc về A nếu A chứng minh được số tiền dùng để mua nhà là tài sản riêng của A.

Về quan hệ hôn nhân trái pháp luật, việc xử lý việc kết hôn trái pháp luật được quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân gia đình 2014. Sau khi A và X đã được giải quyết ly hôn vào ngày 25/07/2015, A không còn bị coi là người đang có vợ nên quan hệ hôn nhân trái pháp luật của A và B có thể được công nhận nếu cả A và B yêu cầu tòa án công nhận quan hệ hôn nhân và hai bên đáp ứng đầy đủ các điều kết hôn khác quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014 nêu trên.

Vui lòng lưu ý rằng thông tin được cung cấp chỉ mang tính chất tham khảo và không thay thế cho việc tư vấn pháp luật chuyên nghiệp. Để có thông tin chính xác và chi tiết hơn, vui lòng tìm kiếm sự tư vấn từ một luật sư có chuyên môn.

Để biết thêm thông tin về các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình, hãy truy cập Izumi.Edu.VN.

FEATURED TOPIC